Chúng ta cần tìm ra số liệu về tỷ lệ tăng trưởng của doanh thu, EPS, vốn cổ phần, và tiền mặt. Những số liệu đó cho chúng ta biết tỷ lệ tăng trưởng của doanh nghiệp mỗi năm so với những năm trước. Nếu nhất quán những số liệu này sẽ là một dự báo quan trọng về tỷ lệ tăng trưởng có thể kỳ vọng trong tương lại. Điều này rất quan trọng khi tính toán giá trị của doanh nghiệp trong thời điểm hiện tại.
Doanh thu là tổng số tiền doanh nghiệp thu được từ việc bán sản phẩm
Cửa hàng nước chanh của các con bạn thu được 3 triệu. Đây là số liệu về doanh thu. Khá đơn giản, đôi khi, doanh thu được xem như con số “hàng đầu” bởi vì nó được đặt ở hàng trên cùng của các báo cáo tài chính (cụ thể là trong báo cáo lợi nhuận). Hàng năm, doanh nghiệp báo cáo doanh thu của mình (và cả các số liệu khác nữa) nhờ thế, chúng ta biết được doanh thu có tăng so với năm ngoái hay không. Doanh nghiệp có số liệu doanh thu trong 10 năm sẽ cho biết doanh nghiệp có tăng trưởng nhất quán không. Nếu có, ta có thể tính toán tỷ lệ tăng trưởng so với doanh thu của năm ngoái.
Nếu cửa hàng nước chanh của con bạn có doanh thu là 300 đô-la trong năm nay và năm sau doanh thu là 1.000 đô-la thì doanh thu tăng thêm của chúng là 700 đô-la. Đây là một tin tốt nhưng con số thực sự quan trọng là tỷ lệ tăng trưởng của doanh thu là bao nhiêu. Hãy để cho máy tính làm phép chia 1.000 đô-la cho 300 đô-la và chúng ta được 3,33. Điều này có nghĩa là doanh thu là số tương tự cộng với 2,3 hay 233%. Do đó, tỷ lệ tăng trưởng doanh thu cho năm nay là 233%. Nếu muốn tính toán tỷ lệ tăng trưởng doanh thu cho nhiều năm, chúng ta có thể dễ dàng làm được điều đó. Chúng ta hãy tiếp tục tiến về phía trước và giả sử bọn trẻ có cửa hàng đó trong năm năm. Trong năm thứ năm, chúng ta kiểm tra doanh nghiệp đó bằng cách tính tỷ lệ tăng trưởng trung bình cho năm năm. Doanh nghiệp đang phát triển nhanh đúng hướng và doanh thu đạt tới 3.000 đô-la cho năm cuối cùng. Năm năm trước, doanh thu chỉ là 1.000 đô-la.
Để thực hiện chính xác phép tính này hãy sử dụng máy tính của tôi; kết quả cho chúng ta biết rằng tỷ lệ tăng trưởng là 25% cho năm năm. (Các máy tính trên trang web của tôi khiến cho tính toán trở nên dễ dàng. Trong chương tới, tôi sẽ hướng dẫn các bạn thực hiện tất cả các bước tính nhẩm hoặc tính trên giây của phép tính này). Chúng ta có thể thực hiện phép tính tương tự cho 10 năm, năm năm và một năm (năm gần đây nhất) và xem tỷ lệ tăng trưởng của doanh thu tăng lên hay giảm xuống. Chúng ta cũng sẽ lặp lại bài tập này cho tất cả bốn số liệu về tỷ lệ tăng trưởng – doanh thu, EPS, vốn cổ phần và tiền mặt. Khi bạn tính toán vài lần, bạn sẽ thấy công việc này không khó.
Chỉ số tiếp theo là EPS (lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu)
Chỉ số này cho chúng ta biết công ty thu được bao nhiêu lợi nhuận trên mỗi cổ phần sở hữu. Ví dụ, kể từ khi cửa hàng nước chanh của bọn trẻ thực sự phát triển, chúng cần mua thêm hàng dự trữ để đáp ứng kịp thời nhu cầu. Chúng sẽ cần một khoản tiền bên ngoài. Để có tiền, lũ trẻ có thể bán một phần quyền sở hữu của mình. Giả sử thời điểm đó là vào năm thứ bảy và chúng muốn bán một nửa quyền sở hữu cho bố hoặc mẹ. Đầu tiên, chúng biến cửa hàng nước chanh thành một công ty để có thể tạo ra nhiều phần sở hữu nhỏ. Những phần sở hữu nhỏ đó được gọi là các cổ phần. Như vậy chúng sẽ có cổ phần để bán cho bạn. Chúng quyết định phát hành 2.000 cổ phiếu. Chúng có thể quyết định bất kỳ một số lượng cổ phiếu nào, ví dụ 10.000 hoặc 1 triệu cổ phiếu. Điều đó không làm thay đổi quy mô của “chiếc bánh” – mà chỉ tạo ra nhiều phần hơn.
Tiếp theo, lũ trẻ cần tính xem công ty của mình đáng giá bao nhiêu để từ đó tiến hành đặt giá cho mỗi phần sở hữu. Ồ, trong năm năm, lợi nhuận của công ty tăng lên đáng kể – với 25% mỗi năm. Năm ngoái, lợi nhuận của công ty là 2.000 đô-la. Bạn nói với bọn trẻ rằng nếu chúng sở hữu một công ty có thành tích hoạt động trong quá khứ cũng tốt như thế thì rất nhiều nhà quản lý quỹ sẽ hài lòng khi trả gấp hai lần tỷ lệ tăng trưởng, hay khoảng 50 lần số lợi nhuận của năm ngoái để được sở hữu một phần công ty đó. Do vậy, nếu công ty này có quy mô lớn và kinh doanh công khai, thì với nhiều nhà đầu tư, nó đáng giá 100.000 đô-la. Nhưng bạn cần biết rằng, doanh nghiệp đó không lớn nên đối với các nhà đầu tư cá nhân nó không có giá trị lớn. Có quá nhiều rủi ro. Những rủi ro như “Bạn sẽ bán cổ phần của mình cho ai nếu bạn muốn rời bỏ công ty?” hoặc vì công ty mới chỉ có năm năm tuổi và thực sự có quy mô nhỏ nên liệu nó có thể tăng trưởng với tỷ lệ như vậy không khi phát triển với quy mô lớn hơn? Bọn trẻ sẽ lấy thêm tiền ở đâu nếu chúng muốn tiếp tục xây dựng công ty lớn mạnh nhanh chóng như vậy? Điều gì xảy ra nếu ban quản lý muốn rời bỏ công ty để đi học đại học?
Vì vậy, bạn và bọn trẻ đồng ý là công ty đó không đáng giá 100.000 đô-la mà chỉ đáng giá 1/4 con số đó. Giả sử là 25.000 đô-la. Nếu công ty đó đáng giá 25.000 đô-la thì một nửa của nó sẽ là 12.500 đô-la. Như vậy, bọn trẻ sẽ đồng ý bán một nửa công ty cho bạn với giá 12.500 đô-la. Để đổi lấy 12.500 đô-la của bạn, chúng đưa cho bạn một nửa số cổ phần đã phát hành: 1.000 cổ phiếu. Vì bạn đã nhận 1.000 cổ phiếu khi trả 12.500 đô-la, nên bạn đã trả 12,50 đô-la cho mỗi cổ phiếu. Chúng cũng tự phát hành cho mình số cổ phần đại diện cho quyền sở hữu một nửa còn lại của công ty đó, do đó bọn trẻ cũng có 1.000 cổ phiếu. Chúng không phải trả một khoản tiền nào cho số cổ phần đó. Chúng là những người sáng lập công ty và thông thường những người sáng lập được nhận cổ phần của mình mà không phải trả tiền vì họ đã làm tất cả mọi việc để đưa doanh nghiệp đến thành công.
Với 12.500 đô-la vốn đầu tư vào công ty cộng với số dư tiền mặt bọn trẻ kiếm được từ lợi nhuận 2.000 đô-la, trong một vài năm đó, công ty của các con bạn sẽ tiếp tục phát triển tới mức thu được lợi nhuận hàng năm là 6.000 đô-la. Bởi vì những người chủ công ty (bạn và các con của bạn) có 2.000 cổ phiếu nên 6.000 đô-la lợi nhuận chia cho 2.000 cổ phiếu có nghĩa là mỗi cổ phiếu đáng giá 3 đô-la. Đây là cách chúng ta tính lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu hay EPS. Trong trường hợp này, EPS là 3 đô-la. EPS thường được gọi là số “dòng cuối” bởi vì nó thường được đặt ở dòng cuối cùng của bản báo cáo tài chính (cụ thể là báo cáo thu nhập).
Cũng như đối với doanh thu, điều chúng ta thực sự quan tâm ngay lúc này là tỷ lệ tăng trưởng của EPS. Cũng như tỷ lệ tăng trưởng của doanh thu, tỷ lệ tăng trưởng của EPS là lượng tăng trưởng từ năm này qua năm khác được biểu hiện bằng phần trăm. Nếu EPS của 10 năm trước là 10 xu trên một cổ phiếu (100 đô-la chia cho 1.000 cổ phiếu, bởi vì cha mẹ của bọn trẻ chưa mua cổ phần) và EPS của ngày hôm nay là 3 đô-la một cổ phiếu thì tính toán tỷ lệ tăng trưởng của EPS sẽ cho chúng ta biết tỷ lệ tăng trưởng EPS 10 năm là 41%.
Đây là một con số tuyệt vời. Bây giờ chúng ta muốn biết xem liệu những người chủ nên giữ lại số tiền đó hay đầu tư mua một loạt thiết bị để tạo ra tỷ lệ tăng trưởng ngoạn mục trong năm tới. Để tìm ra câu trả lời, chúng ta hãy xem xét tỷ lệ tăng trưởng của vốn cổ phần.
Vốn cổ phần
Là những gì còn lại của bạn và các con bạn sau khi bọn trẻ bán đi mọi thứ, thanh toán nợ nần, và lấy ra số tiền mặt còn lại. Nếu lũ trẻ quyết định từ bỏ công ty thì tất nhiên chúng sẽ cố gắng bán công ty. Nếu không ai muốn mua công ty, bọn trẻ có thể chỉ bán phần dự trữ đường và chanh và thanh toán mọi khoản nợ nần. Giả sử chúng có trong tay 8.000 đô-la chanh dự trữ, đường, máy làm nước đá, cốc thuỷ tinh và bàn, cộng với 10.000 đô-la tiền mặt và một vài chiếc xe tải trị giá 10.000 đô-la (đây là phần còn lại từ lợi nhuận và từ 12.500 đô-la vốn đầu tư sau khi mua thêm hàng dự trữ và thiết bị). Vì bọn trẻ không nợ ai nên vốn cổ phần sẽ là 28.000 đô-la (8.000 đô-la từ bán hàng trữ, 10.000 đô-la từ bán xe tải, và 10.000 đô-la tiền mặt). Bạn và các con bạn sẽ chia số vốn đó trên cơ sở mỗi cổ phiếu. Vì có 2.000 cổ phiếu và 28.000 đô-la để chia nên mỗi cổ phiếu sẽ được 14 đô-la. 14 đô-la này được gọi là giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu (BVPS) và 28.000 đô-la được gọi là vốn cổ phần hay giá trị sổ sách. (Một số người gọi là giá trị thanh lý – giá trị của doanh nghiệp khi nó không tồn tại nữa).
Tại sao tăng trưởng vốn cổ phần lại quan trọng đến vậy? Một số học viên của tôi hỏi tôi câu hỏi này và muốn biết tại sao nếu vốn cổ phần chỉ thực sự là một “giá trị thặng dư” thì tỷ lệ tăng trưởng cổ phần lại là một chỉ số tốt để đánh giá sức mạnh của một công ty. Vậy, nếu vốn cổ phần (“số thặng dư”) của một doanh nghiệp không tăng thì doanh nghiệp đó sẽ không có kinh phí mở rộng thị trường hay phát triển sản phẩm mới. Tiền lãi có thể chỉ được chuyển trở lại để duy trì doanh nghiệp – ví dụ, để xây dựng các nhà máy chế tạo mới (những nhà máy có thể trở nên vô giá trị trong vòng năm năm). Hoặc có thể công ty đang theo đuổi chiến lược “tăng trưởng vì mục tiêu tăng trưởng”. Loại tăng trưởng không có mục đích như vậy thường được nhận biết thông qua tỷ lệ ROIC rất thấp, hay nói cách khác, khi đó chúng ta, những nhà đầu tư Quy tắc số 1 – đang bị lợi dụng.
Bản thân số liệu thô này không có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định giá trị bởi vì các doanh nghiệp với nhiều bất động sản và máy móc, chẳng hạn như Mc Donald, có thể có vốn cổ phần tương xứng với giá trị của công ty, trong khi đó có những công ty chỉ có tài sản trí tuệ, như Google, thì vốn cổ phần có thể nhỏ hơn so với giá trị của công ty này. Nói cách khác, các con số về vốn cổ phần rất khác nhau khi bạn so sánh một doanh nghiệp sản xuất với một doanh nghiệp kinh doanh tri thức. Nhưng tỷ lệ tăng trưởng của vốn cổ phần có thể bằng nhau và rất quan trọng. Nó cho chúng ta biết doanh nghiệp có thể tích luỹ giá trị thặng dư, và tự thân doanh nghiệp đó có làm cho mình trở nên khác biệt. Vì vậy, chỉ riêng vốn cổ phần sẽ gần như không được như tỷ lệ tăng trưởng của vốn cổ phần, và điều này lý giải vì sao chúng ta tập trung vào tỷ lệ tăng trưởng nhiều hơn vào các con số tuyệt đối.
Khi xuất bản cuốn Security Analysis (Phân tích sự an toàn) năm 1934, tác giả Benjanmin Graham giải thích rằng: hầu hết các doanh nghiệp không có khả năng tích luỹ nhiều từ thặng dư vốn cổ phần bởi vì họ chi tiêu tất cả những gì kiếm được để duy trì tình hình hiện tại bằng cách thay thế hoặc đáp ứng những gì họ cần để tiếp tục duy trì hoạt động (thiết bị, R&D…). Nhận ra điều này, Warren Buffett bắt đầu tìm kiếm ngoại lệ: một doanh nghiệp hàng năm tích luỹ ngày càng nhiều giá trị thặng dư. Việc tìm kiếm những ngoại lệ đó là vấn đề then chốt đối với việc đầu tư theo Quy tắc số 1. Do đó, chúng ta sẽ tìm kiếm những doanh nghiệp tích luỹ giá trị thặng dư. Đó là lý do giải thích tại sao chúng ta theo dõi sự tăng trưởng của vốn cổ phần.
Vốn cổ phần, hay giá trị sổ sách của các cổ phiếu, cũng là một chỉ số tuyệt vời về tăng trưởng dài hạn mà Buffett gọi là giá trị nội tại còn tôi gọi là “giá trị thực” – giá trị hợp lý của một doanh nghiệp. Trong bức thư của chủ tịch hãng Berkshire Hathaway vào tháng 2 năm 2005, Buffett viết: “Mặc dù có những hạn chế, nhưng những số liệu hàng năm về giá trị sổ sách rất bổ ích đối với Berkshire. Nó như một thước đo có phần hơi thấp hơn giá trị để đo tỷ lệ tăng trưởng dài hạn đối với giá trị thực của chúng tôi”. Vì vậy, chúng ta sẽ xem xét kỹ lưỡng tỷ lệ tăng trưởng của vốn cổ phần để xác định tỷ lệ tăng trưởng dài hạn và quyết định giá trị thực của một doanh nghiệp.
Chúng ta tính tỷ lệ tăng trưởng vốn cổ phần giống như tính tỷ lệ tăng trưởng doanh thu và EPS. Quay trở lại thời điểm lần đầu tiên bọn trẻ bán cổ phần của công ty chúng cho bạn, sau khi bạn đầu tư 12.500 đô-la vào công ty thì vốn cổ phần của doanh nghiệp chủ yếu là tiền mặt – tăng lên là 14.500 đô-la. Nếu doanh nghiệp này giải thể năm năm trước đó thì mỗi cổ phiếu của doanh nghiệp có giá trị là 7,25 đô-la. Nếu hiện tại, các con bạn quyết định giải thể, nghĩa là sau đó năm năm, vốn cổ phần sẽ là 28.000 đô-la và giá trị sổ sách trên cổ phiếu là 14 đô-la. Chúng ta đưa hai con số – 14.500 là giá trị vốn cổ phần của năm năm trước và 28.000 đô-la giá trị vốn cổ phiếu hiện tại – vào máy tính chúng ta biết tỷ lệ tăng trưởng của vốn cổ phần hay của giá trị sổ sách trong năm năm qua là 14%. (Tôi sẽ hướng dẫn các bạn thực hiện những phép tính này trong chương tiếp theo. Ở đây, tôi chỉ đơn thuần truyền đạt cho bạn ý nghĩa của những con số này. Tôi sử dụng thuật ngữ “máy tính” linh hoạt bởi vì bạn sẽ sớm phát hiện ra cách thực hiện những phép tính này, hoặc tính nhẩm hoặc với sự hỗ trợ của máy tính).
Chỉ số tiền mặt
Cuối cùng, chỉ số về tiền mặt cho chúng ta biết tiền mặt của công ty có phù hợp với lợi nhuận không. Cụ thể, tăng trưởng tiền mặt cho chúng ta biết tiền mặt có tăng cùng với lợi nhuận hay không hay lợi nhuận có phải chỉ có trên giấy hay không. Chúng ta muốn có tăng trưởng thực về tiền mặt.
Vốn cổ phần là khoản tiền còn lại được chia cho nhà đầu tư sau khi bán doanh nghiệp (không phải dưới dạng một doanh nghiệp đang hoạt động mà là bán thanh lý, máy móc, hàng dự trữ, bất động sản). Số tiền thu được sẽ được bổ sung vào lượng tiền mặt trong ngân hàng, thanh toán nợ nần, và số tiền còn lại được chia cho chủ sở hữu. Vốn cổ phần không góp phần tạo ra giá trị của doanh nghiệp, nó là một phần quan trọng trong giá trị thực của bất kỳ một doanh nghiệp nào và thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp. Tỷ lệ tăng trưởng ban đầu mang lại cho chúng ta nhận thức rất tốt về tỷ lệ tăng trưởng giá trị thực của doanh nghiệp. Chúng ta có thể sử dụng con số này để tính toán giá trị của doanh nghiệp trong 10 năm tới. (Để hiểu rõ hơn về vốn cổ phần, xin xem bảng chú giải thuật ngữ).
Công ty kinh doanh nước chanh của lũ trẻ là một doanh nghiệp có nhiều tiền mặt. Doanh nghiệp này có một số máy vắt chanh, nghiền nước đá, phục vụ nước quả, và một số chiếc xe tải. Điều này có nghĩa là chúng ta không cần đem lợi nhuận của doanh nghiệp tái đầu tư vào dụng cụ đắt tiền để rồi cuối cùng những thứ đó lại trở thành vô giá trị và phải thay thế liên tục. Nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận thì hầu như tất cả lợi nhuận sẽ trở thành tiền mặt ở ngân hàng.
Khoản tiền đó có thể được sử dụng cho các mục đích của doanh nghiệp hoặc có thể được trao cho chủ đầu tư dưới dạng cổ tức. Cổ tức đơn thuần là tiền được phân chia từ số tiền dư thừa doanh nghiệp không thể sử dụng hiệu quả để phát triển. Do hơi lười biếng và thích câu cá hơn nghiên cứu các báo cáo hàng năm nên tôi thực sự thích những doanh nghiệp có khả năng giúp tôi đầu tư hơn là tôi phải tự đầu tư. Vì vậy, tôi thích những doanh nghiệp có tỷ lệ tăng trưởng cao (và không trả cổ tức, nhưng tôi sẽ cho các bạn biết sự thật về cổ tức ở phần cuối của chương này). Năm năm trước, doanh nghiệp kinh doanh nước chanh của các con bạn có 1.000 đô-la tiền mặt. Hiện nay, chúng có 10.000 đô-la tiền mặt. Chúng ta đưa các con số này vào máy tính và tính được tỷ lệ tăng trưởng tiền mặt là 58%.
Cuối mỗi quý, doanh nghiệp tính lượng tiền mặt của mình. Sau đó đến quý tiếp theo, họ sử dụng tiền mặt của quý trước để thay thế tư liệu sản xuất. Phần còn lại được gọi là “tiền mặt tự do” và được sử dụng để trả cổ tức hoặc làm vốn lưu động – nghĩa là tiền để phát triển doanh nghiệp.